Tuần Cửu Nhật Mừng Lễ Mẹ Lên Trời

TÔN KÍNH ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
Tuần Cừu Nhật từ ngày 6 đến 14 tháng 8
để chuẩn bị mừng lễ Đức Mẹ lên trời ngày 15 tháng 8

Lm. Trần Ngọc Diệp CMF và Lm. Nguyễn Tất Thắng OP


I. Ý NGHĨA ĐẠI LỄ: ĐỨC MẸ LÀ NIỀM HY VỌNG CỦA NH N LOẠI ĐƯỢC CỨU ĐỘ
Ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII ban hành Thông điệp “Munificentissimus Deus”, long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin. “Kết thúc cuộc đời trần thế, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội là Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời đã được đưa lên hưởng vinh quang thiên quốc cả hồn lẫn xác” Đặc ân này xuất phát từ ơn được làm Đức Mẹ Chúa Trời và là hy vọng chắc chắn cho toàn thể nhân loại, là lới hứa cho toàn thể nhân loại sẽ được phục sinh. “Đức Mẹ Chúa Trời đã được kết hợp một cách huyền nhiệm với Đức Giêsu Kitô, dược ơn vô nhiễm khi thành thai, được ơn đồng trinh vẹn tuyền khi làm Mẹ Thiên Chúa, được hết lòng cộng tác với Chúa Cứu Chuộc, Đấng đã hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và các hậu quả của tội lỗi và tử thần. Chiến thắng này là phần thưởng cao quý giữa những đặc ân Mẹ đã được. Nhờ đó, Mẹ được gìn giữ vẹn toàn, không bị hư nát chút nào trong phần mộ, và như Con của Mẹ, Mẹ chiến thắng tử thần và cả hồn lẫn xác được đưa về hưởng ánh vinh quang cao cả trên trời. Nơi đó, Mẹ là hoàng hậu sáng ngời rực rỡ bên hữu Con của mình là Đức Vua bất tử muôn đời”
Đức Thánh Cha cũng hy vọng rằng việc định tín sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho thế giới quay về với Thiên Chúa Ba Ngôi, cho giáo dân thêm lòng sùng mến Mẹ hơn, hiểu biết giá trị đời sống con người và mục đích cao siêu của linh hồn và xác. Sau hết, đức tin vào Mẹ hồn xác lên trời sẽ làm thêm vững mạnh đức tin của chúng ta vào vinh phúc mai sau.
“Chúa Kitô phục sinh vinh quang là hoa quả đầu mùa, rồi mới đến những người thuộc về Chúa Kitô” (1Cr 15,23). Mẹ Maria đã thuộc về Chúa Kitô và sống hiệp nhất với Chúa Kitô Con Mẹ. Chúng ta cũng thuộc về Chúa Kitô và sống hiệp nhất với Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Nếu ta sống đức mến mạnh mẽ như Mẹ, đó là mến Chúa yêu người như Mẹ, ta sẽ hy vọng được chia sẻ vinh quang phục sinh của Chúa Kitô với Mẹ Maria cùng toàn thể các thánh trên trời.

II. TUẦN CỪU NHẬT CHUẨN BỊ
A. Cấu nguyện với Mẹ qua Kinh Mân Côi
1. Dấu Thánh Giá: (Ta mở đầu và kết thúc bằng việc tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi. Ở đây điều đầu tiên đáng ghi nhận là cách thức các chuỗi hạt đều đổ về tượng Thánh giá; Thánh giá vừa mở ra vừa đóng lại chuỗi lời kinh. Cuộc sống và lời cầu nguyện của người tín hữu đều tập trung vào Đức Kitô. Mọi sự bắt đầu từ Người, mọi sự dẫn đến Người, mọi sự nhờ Người, trong Chúa Thánh Thần, đến với Chúa Cha)
Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Amen.
2. Kinh Tin Kính (Kinh mân côi bắt đầu bằng việc đọc kinh Tin kính, như để đặt việc tuyên xưng đức tin làm nền tảng cho cuộc hành trình chiêm ngưỡng mà ta thực hiện)
Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất. Tôi tin kính Đức Chúa GiêSu Kitô là con một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh: chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đanh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết. Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Tôi tin có hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các Thánh thông công. Tôi tin phép tha tội tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.

3. Đọc 3 Kinh Kính Mừng (nhắc nhở đến đức tin, đức cậy và đức mến)

4. Lắng nghe lời mời gọi của Đức Mẹ Fatima (xem phần dành riêng cho từng ngày ở phía dưới) 1. Lời Mời Gọi Hãy Tin; 2. Lời Mời Gọi Hãy Tôn Thờ; 3. Lời Mời Gọi Hãy Trông Cậy; 4. Lời Mời Gọi Hãy Yêu Mến Thiên Chúa; 5. Lời Mời Gọi Hãy Tha Thứ; 6. Lời Mời Gọi Hãy Cầu Nguyện; 7. Lời Mời Gọi Hãy Hy Sinh; . Lời Mời Gọi Hãy Lãnh Nhận Thánh Thể; 9. Lời Mời Gọi Hãy Sống Mật Thiết Với Thiên Chúa Ba Ngôi.

5. Suy ngắm 5 Mầu nhiệm về mầu nhiệm cứu chuộc (theo từng ngày)
Kinh Mân Côi gồm 20 mầu nhiệm được xếp thành 4 nhóm chính:
a/ Năm Mầu nhiệm sự Vui gồm: 1/Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ; 2/ Đức Mẹ thăm viếng bà Isave; 3/ Chúa Giêsu sinh ra tại Belem; 4/ Chúa Giêsu được dâng cho Chúa Cha trong đền thờ; 5/ Chúa Giêsu giảng dậy các tiến sĩ trong đền thờ. a/ Năm Mầu nhiệm Vui mừng gồm: 1/Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ; 2/ Đức Mẹ thăm viếng bà Isave; 3/ Chúa Giêsu sinh ra tại Belem; 4/ Chúa Giêsu được dâng cho Chúa Cha trong đền thờ; 5/ Chúa Giêsu giảng dậy các tiến sĩ trong đền thờ.
b/ Năm Mầu nhiệm sự Sáng: 1/ Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đan; 2/ Chúa Giêsu biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana; 3/ Chúa Giêsu loan báo Nước Thiên Chúa; 4/ Chúa hiển dung trên núi Tabor; 5/ Chúa Giêsu tham dự tiệc cưới Cana.
c/ Năm Mầu nhiệm sự Thương: 1/Chúa Giêsu cầu nguyện tại vườn cây dầu; 2/ Chúa Giêsu bị đánh đòn; 3/ Chúa Giêsu bị đội mạo gai; 4/ Chúa Giêsu vác thánh giá; 5/ Chúa Giêsu chết trên cây thánh giá.
d/ Năm Mầu nhiệm sự Mừng: 1/Chúa Giêsu sống lại; 2/ Chúa Giêsu lên trời; 3/ Chúa Thánh Thần hiện xuống; 4/ Chúa Giêsu đưa Đức Mẹ lên trời; 5/ Chúa Giêsu đặt Đức Mẹ làm Nữ Vương thiên đàng.

Tóm lược ý nghĩa của 5 mầu nhiệm vui mừng: ĐTC Gioan Phaolồ II duyệt lại thứ tự các mầu nhiệm trong Kinh Mân Côi dưới ánh sáng của Phúc m. Khi nói về các mầu nhiệm vui mừng, Đức Thánh Cha viết rằng : khi chúng ta suy niệm mầu nhiệm năm sự Vui thì chính Mẹ Maria « nhắc nhở chúng ta rằng đạo Thiên Chúa trước hết là euangelion, là « tin mừng » , là trung tâm, và còn hơn nữa là chính nội dung, là cá nhân Chúa Kitô, Ngôi Lời làm người, Đấng Cứu Chuộc duy nhất của thế gian » . (RVM số 20d)

Tóm lược ý nghĩa của 5 mầu nhiệm soi sáng: Mầu nhiệm soi sáng được bắt đầu với Phép Rửa Tội ở sông Giođan, tiếp đến là phép lạ đầu tiên ở tiệc cưới Cana, sau đó là « khi Người loan báo Nước Trời và mời gọi ăn năn hối cải, lúc Người Biến Hình và cuối cùng khi Người thiết lập Bí Tích Thánh Thể, ngôn thức bí tích của mầu nhiệm phục sinh » . (RVM số 21) Ta có thể nói rằng mầu nhiệm sự sáng đã làm cho Chuỗi Kinh Mân Côi trở nên trọn vẹn. Vì mầu nhiệm này được soi sáng bởi Phúc m, trong đó Mẹ Maria dù « chỉ hiện diện xa xa ở đàng sau.” (số 21d) vẫn là Đấng « đầu tiên trong những kẻ đã tin » . (RVM số 21c).

Tóm lược ý nghĩa của 5 mầu nhiệm đau thương: Bởi thế, những thời điểm đặc biệt trong các mầu nhiệm đau thương nói lên tình yêu thương nồng nàn của Thiên Chúa đối với nhân loại. « Các mầu nhiệm đau thương hướng dẫn người tín hữu sống lại cái chết của Chúa Giêsu bằng cách đứng dưới chân thập giá, gần bên Mẹ Maria, để cùng với Mẹ thấu hiểu được sự thâm sâu của tình yêu Thiên Chúa dành cho loài người và để cảm thức được tất cả mọi năng lực có tính cách truyền sinh » . (RVM số 22b). Dĩ nhiên, con đường thập giá không thể nào là con đường cuối cùng của mầu nhiệm nhập thể. Vì ánh sáng phục sinh không thể nào bị bóng tối của ngày tử nạn che khuất được.

Tóm lược ý nghĩa của 5 mầu nhiệm vinh quang: Vì vậy, khi suy niệm những mầu nhiệm năm vinh quang, người tín hữu cảm nghiệm được giá trị của đau khổ và cái chết đau thương trên thập giá. Vì những mầu nhiệm trong năm sự Mừng không những chỉ liên quan đến Thiên Chúa mà thôi, nhưng còn liên quan trực tiếp đến nhân loại. Trong đó, không phải chỉ có mầu nhiệm Chúa Kitô sống lại, nhưng còn có sự hiện diện của Giáo Hội với ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống và mầu nhiệm lên trời vinh quang của Mẹ Maria. Đức Thánh Cha đã suy tư hết sức sâu sắc khi Ngài viết về ý nghĩa của mầu nhiệm Năm Sự Mừng : « Vì vậy, những mầu nhiệm năm sự mừng đã nuôi dưỡng nơi các tín hữu niềm hy vọng của ngày tận thế, ngày mà họ tiến về như những chi thể của dân Thiên Chúa hành trình xuyên qua lịch sử » (RVM số 23b)

6. Đọc Kinh Lạy Cha
(Sau khi lắng nghe Lời Chúa và chú tâm vào mầu nhiệm, lòng trí đương nhiên được nâng lên cùng Chúa Cha. Trong mỗi mầu nhiệm, Đức Giêsu luôn luôn dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Cha, vì Người ở nơi cung lòng Chúa Cha (x. Ga 1,18), Người không ngừng hướng về Cha. Người mong muốn chúng ta chia sẻ đời sống thân mật của Người với Chúa Cha, đến nỗi chúng ta có thể cùng Người thân thưa: Abba, Cha ơi (Rm 8,15; Gl 4,6). Nhờ mối tương giao với Chúa Cha, Người làm cho chúng ta trở nên anh em và chị em của Người, đồng thời trở nên anh chị em với nhau, bằng cách thông ban cho chúng ta Thánh Thần của Người và cũng là Thánh Thần của Chúa Cha)
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi mọi sự dữ. Amen.

7. Đọc 10 Kinh Kính Mừng (việc chiêm ngắm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đồng hoá với mầu nhiệm Đức Kitô gắn liền với việc lặp đi lặp lại Kinh Kính mừng. Lặp đi lăp lại Danh Chúa Giêsu,Danh thánh duy nhất được ban cho ta hầu ta có thể hy vọng được cứu rỗi (x. Cv 4,12) trong sự liên kết mật thiết với danh của Thánh mẫu Người, và hầu như làm theo gợi ý của Mẹ, chúng ta bước đi trên con đường đồng hoá, tức là giúp chúng ta chìm sâu hơn vào đời sống của Đức Kitô)
Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử. Amen.

8. Đọc Kinh Sáng Danh (Vinh tụng ca Ba Ngôi là mục tiêu của mọi chiêm ngưỡng kitô giáo. Bởi vì Đức Kitô là con đường dẫn chúng ta đến Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta đi con đường ấy cho đến cùng, chúng ta gặp gỡ đi gặp gỡ lại mầu nhiệm của Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng xứng đáng lãnh nhận mọi lời ca ngợi, thờ phượng và cảm tạ)
Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Thần. Như đã có trước vô cùng, và bây giờ, và hằng có, và đời đời chẳng cùng. Amen.

9. Đọc Lời nguyện Fatima
Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con. Xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhầt là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn.

10. Đọc Kinh Lạy Nữ Vương hoặc Kinh cầu Đức Bà.
Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy, thân lạy Mẹ. Chúng con, con cháu E-và, ở chốn khách đầy, kêu đến cùng Bà, chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khẩn Bà thương. Hỡi ôi! Bà là Chúa bầu chúng con, xin ghé mặt thương xem chúng con. Đến sau khỏi đày, xin cho chúng con được thấy Đức Chúa Giêsu, Con lòng Bà gồm phúc lạ. Ôi khoan thay! Nhân thay! Dịu thay! Thánh Maria trọn đời đồng trinh. Amen.

11. Kinh cầu Đức Mẹ trong cơn đại dịch
Lạy Mẹ Maria, Mẹ luôn tỏa sáng trên hành trình của chúng con như dấu chỉ của ơn cứu độ và niềm hy vọng. Chúng con tín thác nơi Mẹ, là Sức khỏe của những người đau bệnh; cạnh bên Thánh giá, Mẹ đã hiệp thông với đau khổ của Chúa Giêsu và giữ vững đức tin.
Lạy Mẹ, Phần Rỗi của dân thành Roma, Mẹ biết điều chúng con cần và chúng con chắc chắn rằng Mẹ sẽ ban cho chúng con, để giống như ở Cana miền Galilê, sau thời gian thử thách này, niềm vui và lễ hội sẽ có thể trở lại.
Mẹ của Tình yêu Chúa, xin giúp đỡ chúng con biết vâng theo thánh ý Chúa Cha và làm điều mà Chúa Giêsu sẽ nói với chúng con rằng Người đã mang lấy trên mình Người các nỗi đau của chúng con và Người gánh lấy những đau thương của chúng con để qua Thánh giá, đưa chúng con đến niềm vui Phục Sinh.
Lạy Đức Mẹ Chúa Trời, dưới sự che chở của Mẹ, chúng con tìm nương ẩn. Xin đừng chê bỏ lời khấn xin của chúng con đang trong cơn thử thách, và lạy Đức Trinh nữ vinh hiển và được chúc phúc, xin giải thoát chúng con khỏi mọi nguy hiểm. Amen

12. Các Câu Lạy
Xướng: Lạy rất thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu.
Đáp: Thương xót chúng con.
Xướng:: Lạy Trái Tim cực Thánh cực tịnh Rất Thánh Đức Bà Maria.
Đáp: Cầu cho chúng con.
Xướng: Lạy Ông thánh Giuse là bạn thanh sạch Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh.
Đáp: Cầu cho chúng con.
Xướng:: Các Thánh Tử Vì Đạo nước Việt Nam.
Đáp: Cầu cho chúng con.
Xướng: Nữ Vương ban sự bằng an.
Đáp: Cầu cho chúng con.

13. Cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng để hiệp nhất với ĐTC cùng toàn thể Giáo Hội hoàn vũ, và lãnh nhận Ơn Toàn Xá – dành cho chính mình hoặc cho các linh hồn. Kinh mân côi luôn được kết thúc bằng một lời kinh theo ý chỉ của Đức Giáo Hoàng, như để mở rộng tầm nhìn của người cầu nguyện hầu ôm ấp mọi nhu cầu của Giáo hội.

14. Làm Dấu Thánh Giá và Hôn Thánh Giá Chúa (với tâm hồn kính mến vì Chúa đã dùng Thánh giá mà chuộc tội thiên hạ).
Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Amen.

15. Thánh ca kết thúc

B. Thực hành linh đạo Fatima:
Trong 6 lần hiện ra tại Fatima. Đức Mẹ đã làm rất nhiều phép lạ. Ngày 13/10/1917, Đức Mẹ đã làm 1 phép lạ cả thể: đó là mặt trời xoay vần nhảy múa, để mọi người tin rằng Đức Mẹ đã hiện ra để chỉ đường cho mọi người quay về với Chúa. Đức Mẹ yêu cầu các em Lucia, Phanxicô và Giaxinta thực hiện và truyền bá 3 Mệnh lệnh:
1- Ăn năn tội cải thiện đời sống;
2- Tôn sùng Trái Tim vẹn sạch Đức Mẹ;
3- Lần hạt Mân Côi.
Đức Mẹ nói với Lucia khi hiện ra lần thứ nhất ngày 13/5/1917: “Mẹ sẽ đem 2 em con về Trời trước. Còn con, phải ở lại thế gian này, để làm cho người ta biết Ta và yêu mến Ta”. Nữ tu Lucia, một trong ba trẻ em mục đồng đã được Ðức Mẹ hiện ra tại Fatima năm 1917, đã qua đời ngày 13/02/2005, hưởng thọ 97 tuổi. Nữ tu Lucia không cung cấp thêm chi tiết nào cho những lần hiện ra của Ðức Mẹ tại Fatima, nhưng giúp hiểu rõ hơn về ý nghĩa của biến cố trong các bài viết của chị.
Trong Thông Điệp “Benedicite Deum” ngày 31/10/1942, Đức Giáo Hoàng Pio Xll đã kêu gọi toàn thế giới công giáo hãy thực hiện 3 Mệnh lệnh Fatima, và dâng cả loài người cho Trái Tim vẹn sạch Đức Mẹ. Người nói: “Thực hiện 3 Mệnh lệnh Fatima là phương pháp cứu rỗi chắc chắn nhất.
Trong buổi Triều yết chung hôm thứ Tư 13/5/20, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi các tín hữu hãy hướng về Đức Mẹ Fatima, trong ngày 13 tháng 5 là ngày đặc biệt dâng kính Mẹ. Nhân dịp lễ kính Đức Mẹ Fatima, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại cuộc ám sát thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Người đã quả quyết là nhờ sự can thiệp của Mẹ mà Người thoát chết! Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng cầu nguyện cho hòa bình thế giới, và nhờ cầu xin Đức Mẹ xin Chúa giúp chấm dứt cơn đại dịch này.
Ngày 1/5/2021 Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự giờ lần hạt Mân Côi tại đền thờ thánh Phê-rô, khai mạc “Marathon cầu nguyện” với kinh Mân Côi, xin cho đại dịch chấm dứt. Có 31 đền thánh kính Đức Mẹ tham gia “Marathon Cầu nguyện” trực tiếp qua các kênh mạng truyền thông. Đức Thánh Cha cầu nguyện: “Trong hoàn cảnh bi đát hiện nay, đầy đau khổ và lo lắng đang bao trùm cả thế giới, chúng con cầu xin Mẹ, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng con, và chúng con tìm nương ẩn dưới sự che chở của Mẹ.” Đức Thánh Cha xin Mẹ an ủi “những người thất vọng và khóc thương người thân đã khuất, có khi được chôn cất cách đau lòng”, cầu xin Mẹ nâng đỡ của “những người đau buồn vì để tránh lây lan, họ không thể ở gần người bệnh.” “Xin Mẹ truyền niềm tin cho những ai đang lo lắng về tương lai bất định và vì những hậu quả đối với nền kinh tế và công việc.”

III. NHỮNG LỜI MỜI GỌI TỪ SỨ ĐIỆP FATIMA
(Vào ngày 13 tháng 5 năm 1982, đúng một năm sau cuộc mưu sát tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Gioan Phaolô II đã đến Fatima với tư cách một người hành hương. Về Sứ Điệp đã được Đức Trinh Nữ Maria ủy thác cho ba trẻ Jacinta, Francisco và Lucia, Đức Thánh Cha đã nhận định: “Nếu Giáo Hội đã chấp nhận Sứ Điệp Fatima, thì trước tiên vì Sứ Điệp ấy chứa đựng một chân lý và một lời mời gọi mà trên thực chất là chân lý và lời mời gọi của chính Phúc m.” Những lời của vị Giáo Hoàng hành hương, người đã truyền bá Sứ Điệp của Đức Trinh Nữ Maria tại Fatima ra khắp thế giới bằng nhiệt tâm và uy tín, chính là chìa khóa để đọc, hiểu và giải thích quyển sách chị Lucia đã gửi đến cho chúng ta. Tựa đề của quyển sách – Những Lời Mời Gọi Từ Sứ Điệp Fatima – mang nhiều gợi ý đối với Giáo Hội hôm nay, và trong đó, chúng ta gặp được một bảng tổng hợp chín chắn và đầy đủ về Sứ Điệp chị Lucia đã được lãnh nhận từ Mẹ Thiên Chúa.) – Bản tiếng Việt do Matthias M. Ngọc Đính, CMC chuyển ngữ.

Lời Mời Gọi Thứ Nhất của Sứ Điệp Fatima: Lạy Thiên Chúa của con, con tin.
Nữ tu Luxia viết: “Bấy giờ là mùa Xuân năm 1916… Ít là tôi phỏng đoán như vậy, bởi vì khi đó, còn là một đứa trẻ, tôi không để ý đến ngày nào thứ mấy, cũng chẳng lưu tâm hôm ấy thuộc tháng nào! Vậy, vào một ngày trong quãng thời gian đó, khi đang ở trên triền dốc một ngọn đồi tên là Cabeço, phía dưới một khối đá lớn được gọi là Loca, ba mục đồng Fatima nhìn thấy từ xa xa một thanh niên như thể toàn bằng ánh sáng đang tiến đến. Khi lại gần, thanh niên ấy lên tiếng: “Đừng sợ, ta là Thiên Thần Hòa Bình. Các em hãy cầu nguyện với ta.” Sau khi quì gối và phục mình rất sâu cho đến khi trán chạm đất, thiên thần đọc lên những lời sau đây ba lần: “Lạy Thiên Chúa của con, con tin, con tôn thờ, con trông cậy và con yêu mến Chúa. Con nài xin Chúa tha thứ cho những ai không tin, không tôn thờ, không trông cậy và không yêu mến Chúa.” Sau đó, thiên thần đứng thẳng lên và ngỏ lời: “Các em hãy cầu nguyện như vậy; Hai Thánh Tâm Giêsu và Maria đang lắng nghe những lời kêu xin của các em.”
Như vậy, lời mời gọi đầu tiên Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta qua sứ giả của Người là lời mời gọi hãy tin: Lạy Thiên Chúa của con, con tin.
Đức tin là nền tảng cho toàn bộ đời sống thiêng liêng. Nhờ đức tin, chúng ta tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, tin vào quyền năng, sự khôn ngoan, lòng thương xót, công trình cứu độ, ơn tha thứ và tình yêu thương hiền phụ của Người.
Chính nhờ đức tin, chúng ta tin vào Giáo Hội của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu Kitô sáng lập, tin vào giáo lý Giáo Hội truyền dạy cho chúng ta, và nhờ đó, chúng ta sẽ được cứu độ.
Chính ánh sáng đức tin hướng dẫn những bước chân của chúng ta, đưa chúng ta đi trên con đường hẹp dẫn về quê trời.
Chính nhờ đức tin mà chúng ta nhìn thấy Chúa Kitô nơi tha nhân, để yêu thương, phục vụ và giúp đỡ những khi họ cần đến sự hỗ trợ của chúng ta.
Cũng chính đức tin bảo đảm cho chúng ta rằng Thiên Chúa ngự trong chúng ta và ánh mắt của Người lúc nào cũng quan tâm đến chúng ta. Đó là ánh nhìn Ánh Sáng, toàn năng và vô cùng, vươn đến mọi nơi, thấu suốt mọi sự, và nhìn thấy tất cả với một độ thông sáng vô song của Thái Dương Thần Linh. Nếu đem so sánh thì mặt trời mà chúng ta vẫn nhìn thấy và sưởi ấm cho chúng ta chỉ là một phản chiếu nhạt nhòa, một tia sáng lập lòe phát xuất từ Ánh Sáng của Hữu Thể vô cùng là chính Thiên Chúa.

Lời Mời Gọi Thứ Hai của Sứ Điệp Fatima: Con tôn thờ.
Chúa Giêsu Kitô – mô phạm của chúng ta trong mọi sự – đã không chịu tôn thờ ai ngoài một mình Thiên Chúa. Thánh Luca kể rằng sau thời gian Chúa Giêsu đã sống trong sa mạc được bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, cầu nguyện và ăn chay, tên quỉ dữ đã hiện đến cám dỗ Người mà rằng: “Tôi hiến cho ông uy quyền đó hết thảy và vinh quang của các nước ấy, vì nó đã được phó thác cho tôi, và tôi muốn hiến cho ai tùy ý tôi; vậy nếu ông bái xuống lạy tôi, thì nó sẽ là của ông tất cả.” Chúa Giêsu đã bảo nó: “Có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ phượng một mình Người” (Lc 4:6-8).
Như vậy, tôn thờ Thiên Chúa là một trách vụ và là một giới răn mà chính Thiên Chúa vì yêu thương đã đòi buộc chúng ta, để qua đó Người có thể trào đổ phúc lộc xuống cho chúng ta. Điều ấy rất rõ ràng trong trình thuật sau đây: khi ông Moses dẫn dân Israel trở về Đất Hứa, và đến chân núi Sinai, mọi người đều dừng lại. Khi ấy, Thiên Chúa gọi ông Moses lên đỉnh núi để tiếp nhận các bia thánh. Trong thời gian ông Moses ở trên núi trước thánh nhan Thiên Chúa, dân chúng đúc một con bò vàng và thờ lạy nó. Thiên Chúa nổi thịnh nộ vì tội tày đình của dân chúng và cho ông Moses biết Người sẽ hủy diệt dân nghịch đạo ấy. Ông Moses đã làm gì? Ông đã khẩn cầu cho dân. “Moses vội vàng phục xuống đất mà thờ lạy. Và ông nói: ‘Nếu quả tôi được nghĩa với Người, xin Chúa tôi khấng đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ, và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người’” (Xh 34:8-9). Thế là nhờ hành vi phục lạy tôn thờ trước thánh nhan Thiên Chúa mà ông Moses đã xin được ơn tha thứ cho dân và tái lập được mối giao hảo với Thiên Chúa.
Cách thức chúng ta phải tôn thờ Thiên Chúa như thế nào đã được thánh Gioan phác họa trong cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria. “Khi ấy, người đàn bà Samaria nói: ‘Lạy Ngài, tôi thấy Ngài là một vị tiên tri. Cha ông chúng tôi đã thờ phượng trên núi này, còn các ông thì lại bảo: Giêrusalem mới là nơi thờ phượng!’ Chúa Giêsu bấy giờ nói với bà ấy: ‘Này bà, hãy tin Ta, (…) sẽ đến giờ – và là ngay bây giờ – những kẻ thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và chân lý, vì Chúa Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần Khí, nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật’” (Ga 4:19-24).
Như vậy, chúng ta thấy điều quan trọng không phải là việc đi đây đi đó; nhưng chính là việc tinh thần và trí năng chúng ta tôn nhận Thiên Chúa trong sự cao cả và quyền năng vô biên của Người, và qua đó, chúng ta tôn vinh và thờ phượng Người.
Đức thờ phượng gắn liền với lòng mến, lòng tin phục và tri ân, bởi vì chúng ta không mang nợ với ai sâu đậm cho bằng với Thiên Chúa. Đôi khi người ta bộc lộ tình yêu thắm thiết với một ai đó qua những lời như: tôi mê say anh A, em B, đến độ tôn thờ họ! Đó chỉ là một cách biểu lộ tình thân ái, lòng tôn kính và quí trọng đối với những con người giống như chúng ta. Huống nữa đối với Thiên Chúa, chúng ta phải sống như thế nào? Có ai xứng đáng bằng – hoặc hơn – Thiên Chúa hay không?

Lời Mời Gọi Thứ Ba của Sứ Điệp Fatima: Con trông cậy.
Tất cả niềm cậy trông của chúng ta phải đặt trót vào Chúa, bởi vì duy mình Người là Thiên Chúa chân thật. Thiên Chúa đã vì yêu thương mà dựng nên chúng ta và sai Con Một Người là Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, đến chịu đau khổ và chịu chết để cứu chuộc chúng ta.
Qua cung cách các Tông Đồ chèo chống với sóng dữ, cũng như qua thái độ của dân chúng Gennesaret, những người đã đưa các bệnh nhân đến xin Chúa Giêsu chữa lành, trình thuật về đời sống của Chúa Giêsu Kitô trên đây đã nêu lên cho chúng ta một bài học về lòng tin tưởng cậy trông phải có. Thánh sử cho chúng ta biết: tất cả những người dù chỉ chạm vào gấu áo của Chúa cũng được chữa lành, bởi vì họ đã chạm vào với đức tin và lòng cậy trông. Nếu muốn nhận lãnh ân sủng của Chúa, điều kiện tất yếu đòi chúng ta phải có: là phải đến cùng Chúa Kitô với đức tin, tin tưởng vào lòng lành và tình yêu của Người.
Những lời Chúa Giêsu phán với các Tông Đồ cũng áp dụng rất thích hợp vào chúng ta hôm nay: “Hãy vững lòng! Chính là Ta đây! Đừng sợ!” Giữa những phong ba cuộc sống, đối với chúng ta – cũng như các Tông Đồ – mọi sự đều như một cơn ác mộng làm chúng ta kinh hãi. Nhưng nếu biết hướng mắt nhìn lên Chúa Kitô, chúng ta sẽ thấy Người bên cạnh, và từ thẳm sâu tâm hồn, chúng ta sẽ sung sướng nghe được lời êm ái của Người vang lên trấn an chúng ta: “Hãy vững lòng! Chính là Ta đây! Đừng sợ!”
Nếu muốn nghe được và thấu hiểu lời Chúa, chúng ta đừng để lòng trí ra “chai đá.” Thánh Marco cho chúng ta biết lòng trí các Tông Đồ khi ấy còn chai đá, và đó là lý do khiến các ngài không hiểu được lời của Chúa Giêsu. Do đó, lòng trí chúng ta phải thanh thoát khỏi những quyến luyến vô độ với các vật đời này, với những điều hão huyền khiến chúng ta hay hướng chiều về những con đường phù phiếm, những quá trớn về thời trang gây gương mù và làm người khác vấp phạm, xui giục họ sa ngã, phạm tội. Nếu như chúng ta chiều theo xu hướng trụy lạc, ham hố tiền của không thuộc về chúng ta hoặc chúng ta không thể sở hữu một cách hợp pháp, lún sâu vào những tranh chấp, ghen tị, cám dỗ báo thù, chống lại công lý và yêu thương… thì những điều ấy sẽ làm chúng ta ra mù điếc đến độ không còn nhìn thấy hoặc nghe được, cũng không thể hiểu thấu những lời của Chúa Giêsu Kitô. Và như thế, đức tin và lòng cậy trông của chúng ta sẽ bị bào mòn, suy sụp.
Rồi Chúa tiếp tục thổ lộ thân mật với các Tông Đồ về cuộc tử nạn sắp đến của Người: “Này giờ sẽ đến – và đã đến rồi – các con sẽ phân tán, mỗi người mỗi ngả, và bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng không, Thầy không ở một mình đâu, vì đã có Chúa Cha ở với Thầy. Các điều này, Thầy đã nói với các con, ngõ hầu trong Thầy, các con được bình an. Giữa thế gian, các con sẽ phải khốn quẫn. Nhưng hãy vững lòng, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16:32-33).
Chính việc hợp nhất đời sống của chúng ta với đời sống của Chúa Kitô, Của Lễ đền tội cho chúng ta, sẽ xây dựng nền tảng và làm cho lòng cậy trông của chúng ta lớn mạnh. Chúng ta biết, nhờ sự hợp nhất giữa chúng ta với Chúa Kitô và những công nghiệp của Người mà chúng ta được ơn cứu độ. Đồng thời, chúng ta sẽ được đẹp lòng Chúa Cha tùy mức độ chúng ta tái hiện nơi bản thân chúng ta những cảm tình của Con Một Người là Chúa Giêsu, để Chúa Cha nhìn thấy nơi chúng ta dung mạo của Ngôi Lời. Đó là con đường chúng ta phải theo nếu muốn đến được nơi Chúa Giêsu đã chuẩn bị trên thiên đàng cho chúng ta.

Lời Mời Gọi Thứ Tư của Sứ Điệp Fatima: Con yêu mến Chúa.
“Thiên Chúa là Tình Yêu” – thánh Gioan Tông Đồ đã nói với chúng ta như thế – Thiên Chúa yêu chúng ta bằng một tình yêu muôn thuở, nói cách khác là yêu thương từ trước muôn đời. Hiển nhiên Đức Maria là người được Thiên Chúa sủng ái nhất giữa mọi tạo vật. Tuy nhiên, từ muôn đời, tất cả chúng ta cũng đã được hiện diện nơi tâm trí của Thiên Chúa, và làm nên một phần trong chương trình sáng tạo của Người. Hơn nữa, Thiên Chúa còn dựng nên tất cả những vật khác vì yêu thương từng người chúng ta, bởi vì chúng ta luôn luôn hiện diện trước mặt Người và được Người yêu thương. Chúng ta mắc một món nợ nghĩa tình đời đời đối với Thiên Chúa, một món nợ phải đền đáp từ đời này sang đời nọ, mặc dù chẳng bao giờ có thể đáp đền cho cân, bởi vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước và hằng yêu thương hơn mãi. Vì thế, không một người nào và không một vật nào xứng đáng được chúng ta đền đáp tình yêu cho bằng Thiên Chúa.
Do đó, chúng ta phải coi giới luật Thiên Chúa đòi chúng ta yêu mến Người như một biểu chứng của tình yêu Người; đó là dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa chấp nhận lòng mến, lòng biết ơn và sự đáp trả khiêm tốn của tình yêu chúng ta đối với tình yêu của Người. Chúng ta thật ti tiểu trước sự uy linh của Thiên Chúa, nhưng chúng ta dâng lên Người những gì chúng ta có: đó là tình yêu của chúng ta! Điều này cũng phần nào tương tự như những con trẻ – được ẵm bồng trên cánh tay người cha, và được tiếp nhận mọi sự – đền đáp tình cha bằng cái ôm chằm và một nụ hôn, biểu hiện lòng mến yêu của chúng. Người cha tươi cười hạnh phúc và thỏa nguyện, bởi vì đứa con nhỏ đã biết đáp trả tình yêu của ông.
Chúng ta biểu lộ và minh chứng lòng mến yêu Thiên Chúa bằng tình yêu chúng ta dành cho anh chị em của chúng ta. Bởi vì như chúng ta, họ cũng là con cái Thiên Chúa, được Người yêu thương và cứu chuộc qua Chúa Giêsu Kitô. Nếu thực sự muốn biểu lộ tình yêu của chúng ta đối với một người cha trong gia đình, chúng ta chẳng có cách thế nào hiệu quả hơn là cho con cái ông ấy những món quà. Theo ý nghĩa đó, trong Phúc m, Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng Người coi những việc được làm cho một trong những anh chị em hèn mọn nhất là làm cho chính Người. Lý do là vì cũng như chúng ta, anh chị em ấy là con cái của Chúa, con cái của cùng một Cha Trên Trời, được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được tiền định thông phần sự sống đời đời của Người: “Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh mình, trong hình ảnh của Thiên Chúa, Người đã dựng nên họ: Người đã tác thành nên họ, có nam có nữ” (St 1:27).
Tất cả những điều Thiên Chúa phán dạy trong đoạn Thánh Kinh trên đây là biểu hiện tình yêu thương của Người dành cho chúng ta, như một người cha dạy dỗ con cái để chúng đừng lạc xa con đường ngay chính.
Nhưng tình yêu ấy phải được hiểu theo nghĩa tôn trọng sự tinh tấn, sự trong sạch mà bậc sống mỗi người đòi buộc, phải tín trung với Thiên Chúa và tha nhân, phải giữ trọn các lời hứa, lời thề và lời khấn chúng ta đã thực hiện. Không giữ trọn những điều ấy là thất trung, và như thế là thiếu sót trong tình yêu phải có đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em đồng loại.
Ai trong chúng ta cũng muốn được yêu mến, quí chuộng, tôn trọng và đề cao. Đó là một khát vọng Thiên Chúa đã in sâu vào tâm hồn con người, bởi lẽ Người đã vì thương yêu mà dựng nên chúng ta để chúng ta cũng biết yêu thương. Đức ái là một nhân đức muôn đời trường tồn trên thiên đàng, nơi chúng ta sẽ hát khúc vinh ca tình yêu. Để chúng ta đạt được đến chỗ đó, khi ban Luật của Người cho chúng ta, Thiên Chúa đã đặt giới răn yêu mến Thiên Chúa làm giới răn thứ nhất, vì lòng mến sẽ giúp chúng ta chu toàn tất cả những giới răn khác.
Để đức tin, đức thờ phượng, đức cậy và đức ái của chúng ta có thể trở nên chân thực và đẹp lòng Thiên Chúa, chúng phải vươn đến mọi anh chị em của chúng ta qua lời cầu nguyện, gương sáng, lời nói và việc làm của chúng ta. Chúng ta phải gắng sức hỗ trợ và lôi kéo để đưa dẫn họ đến với Thiên Chúa qua những con đường chân lý, công bình, bình an và tình yêu.

Lời Mời Gọi Thứ Năm của Sứ Điệp Fatima: Con xin Chúa thứ tha…
Ngay sau lời mời gọi về đức ái, Sứ Điệp Fatima nói với chúng ta về sự tha thứ; thúc bách chúng ta nài xin Thiên Chúa ban ơn thứ tha cho anh chị em của chúng ta và cho chính chúng ta; cho những kẻ không tin và những người đã tin; cho những kẻ không tôn thờ và những người phục bái trước thánh nhan Thiên Chúa; cho những kẻ không cậy trông và cho những người hằng trọn niềm trông cậy; cho những kẻ không yêu mến lẫn những người thực hành đời sống mến yêu.
Mọi người chúng ta đều cần đến ơn tha thứ của Chúa: vì chúng ta thiếu đức tin, và đức tin của chúng ta quá hời hợt; đức cậy của chúng ta quá yếu ớt; đức ái của chúng ta quá nguội lạnh và nhạt nhẽo; và sự tôn thờ của chúng ta quá chểnh mảng. Chúng ta nài xin ơn tha thứ cho những người không tin, những người không tôn thờ, những người không yêu mến; và nhất là chính chúng ta cũng vào số những người ấy!
Vì vậy, trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu Kitô đã dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6:12). Như vậy, chúng ta không thể lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa nếu trước tiên chúng ta không chịu thứ tha cho anh chị em của chúng ta. Như thế, chúng ta không được nuôi lòng phẫn uất, ác cảm, căm ghét, lại càng không được dốc tâm báo thù một sự xúc phạm, dù lớn dù nhỏ, mà người chung quanh đã gây ra cho chúng ta. Lòng tha thứ của chúng ta phải quảng đại, trọn vẹn và có hy sinh, theo nghĩa phải thắng vượt bản thân. Chúng ta cần làm câm nín tiếng gào thét đòi nổi loạn, dập tắt những căm phẫn, chế ngự tâm tính và làm chủ tính khí khi lòng tự ái của chúng ta bị tổn thương, mà dù đúng dù sai, nó đều cảm thấy bị bầm dập và bị kích động.
Trong những trường hợp như thế, chúng ta được mời gọi hãy bỏ qua cho đối phương khi họ đến xin tha thứ: “Vậy nếu các ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ, và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ mà đi làm hòa với anh chị em ngươi trước đã, rồi trở lại mà dâng lễ vật của ngươi. Hãy kíp thỏa thuận với đối phương” (Mt 5:23-25).
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, lúc nào Người cũng sẵn lòng ban ơn tha thứ cho chúng ta ngay vừa khi nhìn thấy nơi chúng ta một tâm tình thống hối và ước nguyện cải thiện, tức là khi chúng ta biết ăn năn, cải thiện cuộc sống, từ bỏ tội lỗi và bước vào con đường ơn thánh. Chúa Giêsu đã phán với thánh nữ Mary Magdalen: “Tội lỗi con đã được tha. (…) Đức tin con đã cứu chữa con. Hãy về bình an.” Với nhóm Biệt phái, những người tỏ ra nghi ngờ hạnh kiểm của Mary Magdalen và dò xét thái độ nhân hậu cảm thông của Chúa dành cho thánh nữ, Chúa Giêsu đã nói: “Tội lỗi bà ấy tuy nhiều nhưng đã được thứ tha, vì bà đã yêu mến nhiều” (Lc 7:47). Chúa nhìn thấy từ đôi mắt của Mary Magdalen những giọt lệ đang lăn xuống trên đôi má. Chúa nhìn thấy nơi mái tóc và dầu thơm Mary Magdalen dùng để xức cho Người một thái độ khước từ những huyễn hoặc trần thế và quyết tâm cải đổi; Chúa nhìn thấy trong tâm hồn Mary Magdalen một nỗi đau buồn hòa lẫn trong quyết định cải thiện đời sống… Vì thế, Chúa đã phán với thánh nữ: “Này bà, tội lỗi bà đã được thứ tha.”

Lời Mời Gọi Thứ Sáu của Sứ Điệp Fatima: Hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện thật nhiều!
Lúc ấy, ba trẻ đang ngồi bên cạnh bờ giếng tại miếng đất kế cận ngôi nhà của cha mẹ tôi. Thiên thần hiện ra và hỏi: “Các em đang làm gì vậy?” Và không đợi trả lời, ngài liền nói tiếp: “Hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện thật nhiều! Hai Thánh Tâm Giêsu và Maria có những chương trình của lòng thương xót dành cho các em. Các em hãy không ngừng dâng lên Thiên Chúa Tối Cao những lời cầu nguyện và hy sinh. (…) Các em hãy lợi dụng tất cả để hy sinh và dâng lên Thiên Chúa như một hành vi đền tạ vì các tội lỗi đã xúc phạm đến Người và để khẩn nài ơn hoán cải cho các tội nhân. Nhờ đó, các em sẽ xin được ơn hòa bình xuống cho tổ quốc các em. Ta là Thiên Thần Bản Mệnh nước Bồ đào nha. Tiên vàn các em hãy đón nhận và vui chịu đau khổ Thiên Chúa sẽ gửi đến cho các em.”
Các mặc khải siêu nhiên thường đi kèm với một ơn đặc biệt để làm sáng tỏ ý nghĩa của các mặc khải ấy. Tuy nhiên, vào thời gian đó, quả thật ba trẻ chưa hiểu nổi ý nghĩa đầy đủ của Sứ Điệp như chúng ta ngày nay, nhưng vì thánh ý Thiên Chúa muốn tôi truyền bá Sứ Điệp cho các linh hồn, nên Người vẫn giữ tôi lại đây theo sự an bài của Người.
Vào thời gian ấy, các trẻ không sao hiểu được rằng lời mời gọi ấy không dành riêng cho chúng, nhưng là cho toàn thể nhân loại. Ngày nay, tôi coi lời mời gọi ấy như một biểu hiệu dẫn đến con đường mà Thiên Chúa, ngay từ buổi đầu trong công trình sáng tạo, đã vạch sẵn cho các thụ tạo của Người.
Thực vậy, trong Lời Thiên Chúa được chứa đựng trong Cựu và Tân Ước, chúng ta tìm thấy con đường Thiên Chúa đã vạch sẵn cho nhân loại rất rõ ràng. Tuy nhiên, thật bất hạnh, nhân loại nói chung đã khinh thường mục đích việc họ được tạo thành. Họ làm phớt lờ sự hiện hữu của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của họ; họ chẳng nhận biết Thánh Danh Thiên Chúa, Đấng họ chưa bao giờ xưng nhận là Cha; và họ không biết con đường phải theo để một ngày kia được hưởng hạnh phúc trong Nhà Cha của họ.
Như vậy, đa số nhân loại là nạn nhân của thảm trạng vô tri, đi tìm hạnh phúc nơi không tìm được và càng ngày càng đắm chìm sâu hơn trong cảnh khốn cùng và bất hạnh. Chúng ta hãy thoáng nhìn cái thế giới chúng ta đang sống! Chúng ta thấy những gì? Hiện ra trước mắt chúng ta là bức tranh thế nào? Nào chiến tranh, hằn thù, tham vọng, bắt cóc, trộm cướp, thù hận, lừa đảo, giết chóc, vô luân, v.v… Và hình phạt dành cho những tội lỗi ấy là tai ương, bệnh tật, tai họa, đói kém và muôn muôn vàn vàn những đớn đau khổ sở đang đè nặng khiến nhân loại phải quằn quại rên xiết.
Những kẻ tự nhận là khôn ngoan và hùng mạnh tiếp tục mưu đồ những cuộc chiến và giết chóc, tai ương và khốn khó, đổ thêm máu vào biển máu, nơi toàn thể các dân tộc đang đắm chìm – đây chính là những người đúng ra phải được các kẻ tự nhận là khôn ngoan giúp đỡ để được sống và cứu lấy bản thân.
Từ khi nguyên tổ Ađam phạm tội bất tuân mệnh lệnh Thiên Chúa, toàn thể miêu duệ của ông đều gánh chịu nỗi đau đớn của cái chết phần xác. Tuy nhiên, linh hồn chúng ta vẫn tiếp tục sống mãi. Nếu chúng ta lìa đời trong tình trạng ơn thánh, linh hồn sẽ được trở về với Thiên Chúa; còn nếu chúng ta chết trong tình trạng tội lỗi, thì chính tội lỗi sẽ đẩy linh hồn xa khỏi Thiên Chúa và xô nó vào hình phạt muôn kiếp.
Trong ngày phục sinh toàn thể, tất cả chúng ta sẽ sống lại để tái hợp với linh hồn và cùng thông phần số phận muôn đời dành cho cả linh hồn và thân xác: hoặc hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa, hoặc bất hạnh muôn kiếp với đọa phạt. Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết điều ấy khi Người nói về công việc Chúa Cha đã ủy thác cho Người: “Các ngươi chớ ngạc nhiên; vì đến giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng Ngài (tiếng của Con Người) mà đi ra, kẻ làm lành trong phục sinh sự sống, kẻ làm dữ trong phục sinh án xử” (Ga 5:28-29).
Tất cả điều này cho thấy chúng ta rất cần cầu nguyện, rất cần phải sống mật thiết với Thiên Chúa trong cầu nguyện. Nhờ cầu nguyện, chúng ta tìm được ơn tha thứ tội lỗi, sức mạnh và ơn thánh để chống lại những cám dỗ của trần thế, ma quỉ và xác thịt. Chúng ta vô cùng yếu hèn; và nếu thiếu nguồn sức mạnh này, chúng ta sẽ không bao giờ có thể chiến thắng. Vì thế, Chúa Giêsu đã khuyến giục các Tông Đồ: “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ; tinh thần thì mau mắn, nhưng xác thịt lại yếu hèn” (Mt 26:41).

Lời Mời Gọi Thứ Bảy của Sứ Điệp Fatima: “Hãy không ngừng dâng hiến những lời cầu nguyện và những hy sinh lên Đấng Tối Cao.”
Lời mời gọi Thiên Chúa giờ đây nói với chúng ta là hãy hy sinh, một điều chúng ta đã gặp trong rất nhiều trang Thánh Kinh. Nếu như lặp lại điều ấy ở đây một lần nữa, thoạt đầu xem ra có vẻ thừa thãi; tuy nhiên, thật không luống công vô ích, bởi vì tất cả chúng ta thường hay lơ đễnh và khườn lười trong việc chu toàn nhiệm vụ trọng đại này.
Trong Cựu Ước, các tư tế thường sát tế những sinh vật và hiến dâng làm của lễ đền tội thay cho chính mình và toàn dân. Nhưng các của lễ ấy chỉ là những tiên trưng, những hình bóng của hiến tế mà Chúa Kitô, Của Lễ đích thực duy nhất, sẽ dâng lên Thiên Chúa để đền bồi tội lỗi nhân loại. Hiến tế của Chúa Kitô, Đấng đến để chấm dứt các hình bóng, đã vĩnh viễn thay thế các lễ tế Cựu Ước. Và hằng ngày trên các bàn thờ, chúng ta tái diễn hiến tế ấy khi cử hành hiến tế tạ ơn, một cuộc tái diễn không đổ máu của hiến tế Thập Giá.
Nhưng như vậy vẫn chưa đủ, vì theo lời thánh Phaolô Tông Đồ (Cl 1:24), chúng ta phải hoàn tất những gì còn thiếu trong cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô nơi mình chúng ta, bởi vì chúng ta là những chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm của Người. Thực vậy, khi một chi thể phải đau đớn, thì tất cả các chi thể khác cùng đớn đau; và khi một bộ phận bị tách lìa, thì tất cả các bộ phận khác trong thân thể đều bị ảnh hưởng vì hành vi “hy sinh” ấy; nếu một cơ phận lâm bệnh hiểm nghèo, ngay cả khi căn bệnh chỉ giới hạn trong một phần thân thể đi nữa, thì toàn thân đều đau đớn và sẽ chết. Trong đời sống thiêng liêng cũng tương tự như thế. Tất cả đều yếu đuối, mọi người đều vướng mắc nhiều khiếm khuyết và tội lỗi; vì thế, trong sự hợp nhất với Chúa Kitô, Của Lễ vô tội, tất cả chúng ta đều có bổn phận phải thực hiện những hy sinh để đền bồi tội lỗi của bản thân và của anh chị em mình, bởi vì chúng ta tất cả đều là những chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm của Chúa Kitô.
Sứ điệp Fatima mời gọi chúng ta: “Hãy tận dụng tất cả để hy sinh và dâng lên Thiên Chúa như một hành vi đền tạ vì các tội lỗi đã xúc phạm đến Người, và để khẩn nài ơn hoán cải cho các tội nhân” (Lời Thiên Thần). Có thể đó là những hy sinh trong lãnh vực tinh thần, trí năng, luân lý, thể lý hoặc vật chất. Tùy từng thời điểm cụ thể, chúng ta sẽ gặp cơ hội để thực hiện hy sinh này hoặc hy sinh kia. Điều quan trọng là lúc nào chúng ta cũng sẵn sàng tận dụng mọi cơ hội khi xuất hiện; nhất là phải sẵn lòng hy sinh khi sự việc liên quan đến bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa, với những người chung quanh và với bản thân. Trong trường hợp để tránh vi phạm một giới răn trong Luật Chúa, những hy sinh như thế càng khẩn thiết hơn nữa. Trong những hoàn cảnh ấy, hành vi hy sinh chúng ta phải ép mình để thực hiện kia là một trách vụ, bởi vì chúng ta có trách nhiệm phải làm tất cả những gì cần thiết để tránh phạm tội. Phần rỗi đời đời của chúng ta hệ tại ở đó, như Chúa Giêsu đã nói với chúng ta trong Phúc m: “Hễ ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình và vác lấy thập giá mà theo Ta. Vì hễ ai muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất nó; còn ai đành mất mạng sống vì Ta thì sẽ cứu được nó. Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì nào được ích gì?” (Lc 9:23-25). Qua những lời Chúa phán trên đây, chúng ta thấy rằng chúng ta phải sẵn lòng thà chết còn hơn phạm một tội trọng có thể khiến chúng ta đánh mất cuộc sống đời đời. Điều ấy rất đúng, và càng đúng hơn nữa trong trường hợp vì vâng giữ Luật Chúa mà chúng ta buộc phải hy sinh những điều xem ra chưa quí bằng mạng sống chúng ta.

Lời Mời Gọi Thứ Tám của Sứ Điệp Fatima: “Hãy lãnh nhận Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô đã chịu xúc phạm tàn bạo vì những kẻ vong ân. Hãy đền tạ vì những tội ác của họ và hãy an ủi Thiên Chúa.”
Khi Chúa Giêsu Kitô mặc khải ý định của Người muốn ở lại với chúng ta trong bí tích Thánh Thể để trở nên của ăn, sức mạnh và sức sống cho chúng ta, nhóm Biệt phái lấy làm chướng tai và không tin. Nhưng Chúa vẫn khẳng định: “Ta là Bánh sự sống. (…) Ai ăn Bánh này thì sẽ sống đời đời và Bánh Ta sẽ ban, ấy là Thịt Ta. (…) Nếu các ngươi không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ngươi không có sự sống nơi mình các ngươi” (Ga 6:48-51, 53-54). Theo những lời ấy, rõ ràng nếu không tiếp nhận lương thực Thánh Thể, chúng ta sẽ không có sự sống ân sủng, tức là sự sống siêu nhiên tùy thuộc vào sự kết hợp của chúng ta với Chúa Kitô qua việc lãnh nhận Mình Máu Thánh của Người khi hiệp lễ. Vì lý do ấy, Chúa đã ở lại trong bí tích Thánh Thể để trở nên của ăn thiêng liêng cho chúng ta, trở nên Bánh hằng ngày nuôi dưỡng đời sống siêu nhiên trong chúng ta.
Nhưng để lãnh nhận Bánh này, chúng ta phải sống trong ơn nghĩa Chúa, như lời thánh Phaolô cảnh báo: “Vì chưng, chính tôi đã chịu lấy nơi Chúa điều tôi truyền lại cho anh chị em. Là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người đã cầm lấy bánh và tạ ơn, Người đã bẻ ra và nói: ‘Này là Mình Ta, vì các con, hãy làm việc này mà nhớ đến Ta.’ Cũng vậy về Chén, sau khi đã dùng bữa tối xong, Người nói: ‘Chén này là là Giao Ước mới trong Máu Ta, các con hãy làm việc này mỗi khi uống, mà nhớ đến Ta.’ Vì mỗi lần anh chị em ăn Bánh và uống Chén ấy, anh em loan báo sự chết của Chúa, cho tới lúc Người đến. Cho nên kẻ ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, tất sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa. Vậy thì người ta hãy tự hạch xét chính mình, rồi như vậy mới ăn Bánh ấy và uống Chén ấy. Vì kẻ ăn và uống mà không phân biệt được Thân Mình, tức là ăn và uống án phạt cho mình” (1 Cr 11:23-29).
Chỉ sau khi đã dọn mình như thế, chúng ta mới được lên lãnh nhận Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô, với niềm vững tin rằng bí tích này đem đến cho chúng ta nguồn sức sống, sức mạnh, ơn thánh, và làm cho chúng ta trở nên xinh đẹp trước mắt Thiên Chúa. Chúa Cha nhìn thấy chúng ta nơi Con Một của Người, Đấng đã kết hợp với chúng ta qua mối hợp nhất trọn hảo, và đã vì yêu thương mà hiến mình cho chúng ta.
Chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô qua đức tin. Chúng ta biết Người là Ngôi Lời Thiên Chúa. Chúng ta tin vào Lời của Người, vào Giáo Hội của Người. Chúng ta muốn bước theo con đường Người đã vạch vẽ cho chúng ta, để nhờ Người, chúng ta có thể đến cùng Chúa Cha; và nhờ Người, chúng ta sẽ được sống lại trong ngày sau hết. Thực vậy, nếu chúng ta được nuôi dưỡng nhờ Bánh nơi bàn tiệc của Chúa Kitô và được uống Chén của Người, chúng ta sẽ có sự sống của Người trong chúng ta. Chúng ta được nên một với Chúa Kitô nhờ được thông phần Thịt và Máu của Người trong bí tích Thánh Thể.
Chịu giam hãm trong các nhà tạm và chịu tế hiến trên các bàn thờ, Đấng Cứu Thế của chúng ta tiếp tục hiến thân cho Chúa Cha như một của lễ đền bồi tội lỗi của toàn thể nhân loại, với hy vọng nhiều linh hồn quảng đại sẽ muốn liên kết với Người, nên một với Người bằng việc thông phần hiến lễ hy sinh ấy. Cùng với Chúa Kitô, họ cũng hiến mình cho Chúa Cha làm của lễ đền bồi tội lỗi của trần gian. Như vậy, Chúa Kitô hiến thân làm của lễ, nơi bản thân Người cũng như nơi các chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm của Người là Giáo Hội. Đây là lời mời gọi của Sứ Điệp Fatima: Hãy dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh công nghiệp của Chúa Kitô Của Lễ, để đền bồi những tội lỗi đã xúc phạm đến Người, trong khi Thiên Thần dạy cho ba trẻ cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, con khâm sùng thờ lạy Chúa, và con xin hiến dâng Chúa Mình Thánh, Máu Thánh, Linh Hồn và Thiên Tính cực trọng của Chúa Giêsu Kitô đang hiện diện trong các nhà tạm trên khắp thế giới để đền bồi những tội lăng mạ, phạm thánh và hững hờ mà chính Người đang bị xúc phạm. Vì những công nghiệp vô cùng của Trái Tim Cực Trọng Chúa Giêsu và Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, con nài xin Chúa ban ơn hoán cải cho các tội nhân” (Sứ điệp của Thiên Thần).

Lời Mời Gọi Thứ Chín của Sứ Điệp Fatima: “Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, con khâm sùng thờ lạy Chúa.”
Ở đây, Sứ Điệp Fatima trình bày mầu nhiệm Thiên Chúa Nhất Thể Tam Vị: Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần cho đức tin và đức thờ phượng của chúng ta. Sứ Điệp trình bày cho chúng ta mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Một Thiên Chúa và Ba Ngôi riêng biệt.
Nhưng trên hết là Thánh Kinh đã nói ở nhiều chỗ, đã mặc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, chẳng hạn thánh Luca đã trình bày với chúng ta mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể: “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà; vì thế, Hài Nhi sinh ra sẽ được gọi là đấng thánh, Con Thiên Chúa” (Lc 1:35). Toàn thể Ba Ngôi Thiên Chúa đều được đề cập đến trong đoạn văn trên: Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Đức Trinh Nữ; Đấng Tối Cao (Đấng mà Chúa Giêsu Kitô, “Con Đấng Tối Cao” sẽ gọi là Cha) nhiệm sinh Ngôi Lời; và Đấng sẽ được sinh ra là Chúa Con, như lời Thiên Thần cho biết, “sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.”
Trong Phúc m, nhiều lần Chúa Giêsu Kitô cũng đã nói về Ba Ngôi – Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần – và nhận mình là Ngôi Con: “Điều gì các con xin nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm, ngõ hầu Cha được tôn vinh nơi Con. (…) Nhưng Đấng Bầu Chữa, Thánh Thần Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi sự, và sẽ nhắc cho các con nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với các con” (Ga 14:13, 26). Ở một nơi khác, Chúa Giêsu còn phán: “Cha yêu thương Con và đã ban mọi sự vào tay Con” (Ga 3:35), rồi sau đó một chút, Người lại phán: “Vì cũng như Cha làm cho kẻ chết sống lại, và tác sinh thế nào, thì cũng vậy, Con được tác sinh cho ai tùy ý” (Ga 5:21).
Vậy, chúng ta có một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi riêng biệt: Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần đến với chúng ta trong tư cách một tôn sư dạy dỗ và nhắc cho chúng ta nhớ lại những điều Chúa Giêsu Kitô đã mặc khải: “Người sẽ dạy các con mọi sự, và sẽ nhắc cho các con nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với các con.” Chúa Thánh Thần thực hiện điều này trực tiếp qua các linh ân Người thông ban cho linh hồn, hoặc gián tiếp bằng cách sử dụng các phương thế nhân loại, chủ yếu là qua Giáo Hội, hiền mẫu và ân chủ của chúng ta. Một trong những sứ mạng chính yếu được ủy thác cho Giáo Hội hoàn thành trên trần gian là nhắc nhở chúng ta – với quyền bính và lòng trung tín – về tất cả những điều Chúa Giêsu Kitô đã giảng dạy và đã thực hiện.
Giờ đây, hiển nhiên chân lý toàn vẹn chính là tình yêu, bởi vì như lời thánh Gioan cho biết, Thiên Chúa là Tình Yêu. Như vậy, yêu mến là sở hữu được tặng ân cao quí nhất của Thiên Chúa, bởi vì như thế là chiếm hữu được chính Thiên Chúa. “Nếu ai yêu mến Ta, thì sẽ giữ lời Ta, và Cha Ta sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy” (Ga 14:23). Yêu mến là sở hữu được Thiên Chúa và được đắm đuối trong Người; tình yêu Thiên Chúa trong chúng ta được thông ban nhờ sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa, đưa chúng ta đến chỗ sống giữa đại dương sự sống siêu nhiên, luôn bước theo con đường ánh sáng của lời Chúa soi dẫn. Và như thế, tình yêu Thiên Chúa sẽ hiển lộ nơi chúng ta, biến đổi và đồng hóa chúng ta với Ba Ngôi Thiên Chúa qua việc chúng ta hoàn toàn hợp nhất với Chúa Giêsu Kitô: “Trong ngày ấy, các con sẽ biết được là Thầy ở trong Cha, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Ai có các lệnh truyền của Thầy và giữ lấy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy, thì được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14:20-21).
Do đó, chính tình yêu sẽ biến đổi chúng ta thành những đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu và Người thông ban cho chúng ta sự sống tình yêu của Người, tức là sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta – “Thầy sẽ tỏ mình ra cho người ấy” – đó là sự sống của Chúa Kitô nơi chúng ta, như Người đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Lạy Cha chí công, thế gian không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và các người này cũng đã biết là Cha đã sai Con. Và Con đã tỏ cho họ biết Danh Cha, và sẽ còn tỏ cho biết hơn nữa, ngõ hầu lòng mến Cha đã yêu Con có trong họ, và Con trong họ” (Ga 17:25-26).
Trước tiên, chúng ta thấy Chúa Giêsu Kitô minh định rằng sự sống đời đời hệ ở việc nhận biết Thiên Chúa và Chúa Con được Chúa Cha sai đến. Và cách thức ấy là thế này: việc nhận biết Thiên Chúa đưa chúng ta đến chỗ yêu mến Người, tình yêu đưa đến sự kết hợp, và sự kết hợp đưa chúng ta vào cuộc sống siêu nhiên của Thiên Chúa. Thứ đến, chúng ta hãy xem Chúa Cứu Thế đã cầu nguyện cùng Chúa Cha cho những kẻ Người đã tuyển chọn từ giữa thế gian như thế nào, bởi vì họ đã thuộc về Người; và họ thuộc về Người bởi vì họ lắng nghe Lời Người: “Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con, và chúng đã giữ lời Cha.”
Thiên Chúa là nơi duy nhất có thể tìm thấy hạnh phúc, và hơn nữa, chúng ta đã được dựng nên để hưởng hạnh phúc. Tuy nhiên, chúng ta không thể tìm thấy Thiên Chúa trong thỏa mãn nhục dục và giác quan, đam mê kiêu ngạo, tự tôn tự đại và tham lam. Thiên Chúa chỉ có thể tìm thấy nơi các linh hồn trong sạch, những con tim khiêm nhượng và những lương tâm ngay chính, không vương vấn các sân si trần tục như danh vọng, khoái lạc, của cải, v.v. Những linh hồn này giống như Thiên Chúa, và nơi họ có sự sống của Thiên Chúa. Càng ngày, Thiên Chúa càng cho họ thông phần các ân huệ của Người hơn.